Duck hunt
Không bấm vùng phía trên kẻo mất tiền nhé!



CHƯƠNG 3
Tôi thậm chí còn chẳng hiểu chuyện đó xảy ra thế nào nữa. Bạn biết không, tôi đã cẩn thận lắm lắm rồi. Cẩn thận để tránh, không yêu Jesse ấy mà. Và tôi đã làm rất tốt đấy chứ. Tôi đi chơi, gặp gỡ nhiều người mới, làm những việc mới, giống như lời khuyên trong tờ Cosmo. Chắc chắn là tôi không hề chỉ biết ngồi có một chỗ mà mơ mộng về anh ta hay gì đó đâu nhé. Ừ thì, từ hồi chuyển đến California này, đa phần những tên con trai tôi đi chơi cùng đều hoá ra hai loại, hoặc là bị những kẻ giết người tâm thần truy sát, hoặc lại chính là kẻ sát nhân tâm thần. Nhưng đó chẳng phải lời bào chữa thích đáng cho cái việc đi yêu một con ma. Thực sự không phải. Nhưng chuyện lại xảy ra như thế đấy. Tôi có thể nói chính xác cái giây phút nào tôi biết nó đã kết thúc nữa kìa. Ý tôi là cái cuộc đấu tranh để ngăn bản thân mình yêu anh ta ấy mà. Đó là khi tôi phải nằm viện để hồi phục lại sau cái cuộc tẩn nhau ác liệt với ma mà tôi đã kể lúc trước - cái lần tôi vinh dự được oánh nhau với hồn ma của bốn học sinh trường RLS, những kẻ đã bị mưu sát trước khi nghỉ hè mấy tuần. Vậy là Jesse đã hiện ra trong phòng bệnh của tôi (Sao lại không chứ? Anh ta là ma cơ mà. Anh ta muốn hiện ra ở đâu mà chả được) để nói lời chúc mau-lành-bệnh cực kỳ xúc động, và thế là, trong khi ở đó, đã có một lúc anh ta đưa tay ra chạm và má tôi. Thế thôi. Anh ta chỉ chạm vào má tôi, tôi tin rằng đó là chỗ duy nhất trên người tôi lúc đó còn chưa bị thâm tím bầm dập. To tát quá nhỉ? Anh ta chạm vào má tôi. Có thế thôi mà cũng phải ngất. Nhưng tôi ngất thật đấy. Ôi, cũng không phải theo nghĩa đen thế. Không có ai đem muối mặn ra mà gí vào mũi tôi hay gì gì đó để cho tỉnh lại đâu, giời ạ. Nhưng mà sau đó thì, tôi 'đi' luôn. Chết thẳng cẳng. Ngất trên cành quất. Tôi tự lấy làm hãnh diện rằng mình đã che giấu rất tốt. Tôi tin chắc rằng anh ấy chẳng biết gì hết. Tôi vẫn đối xử với anh ấy như thể anh ấy là... ừm... là cái con kiến bị rơi xuống bể bơi lúc trước ấy. Bạn biết đấy, có khó chịu thật, nhưng không đáng phải giết nó. Mà tôi cũng chưa kể cho bất kỳ ai hết. Làm sao mà kể được? Trừ Cha Dominic hồi còn ở trường, và Tiến Sỹ, đứa em con dượng - còn thì không ai biết được thậm chí Jesse có tồn tại. Ý tôi là, hồn ma của một tên con trai đã chết một trăm năm mươi năm trước rồi, đang sống trong phòng tôi ấy à? Nếu tôi mà nói cho ai biết điều đó, thì họ sẽ tống tôi vào cái phòng thương điên còn nhanh hơn cả khi bạn kịp nói xong câu Linh hồn Oan khuất ấy chứ. Nhưng mà chuyện vẫn cứ còn đó. Tôi không kể cho ai nghe không có nghĩa là chuyện đã qua; lúc nào nó cũng thế, cứ ở trong tâm trí tôi, như kiểu những bài hát của nhóm 'NSync mà bạn không thể quên đi được ấy. Và phải nói thật, điều đó khiến cho cái ý nghĩ đi chơi cùng với những tên con trai khác có vẻ như là... ừm... thật phí thời gian. Thế nên tôi mới không nhảy dựng lên khi có cơ hội được đi chơi với Paul Slater (cho dù nếu bạn có hỏi, thì này, đi ăn tối với cậu ta và bố mẹ và em trai cậu ta nữa, hầu như thế chẳng phải là đi chơi gì cả). Thay vào đó, tôi về nhà ăn tối với bố mẹ và anh em của chính tôi. Ừ thì, anh em con dượng vậy. Bữa ăn tối ở gia đình Ackerman lúc nào cũng là một vấn đề to oành... đấy là trước khi dượng Andy bắt đầu công việc lắp đặt bồn tắm nóng. Từ lúc đó đến nay, dượng ấy rõ là đã sao nhãng công việc bếp núc. Và vì mẹ tôi là người mà đố bạn dám bảo là một đầu bếp, thế nên gần đây nhà tôi gọi đồ ăn mang đến nhà khá thường xuyên. Tôi cứ tưởng chuyện tối hôm trước đã là 'kịch kim' rồi, khi nhà tôi phải gọi điện đặt pizza ở quán Peninsula, nơi Ngái Ngủ làm thêm chân đưa pizza vào buổi tối. Nhưng khi đặt chân vào nhà tối hôm đó và trông thấy một cái hộp màu trắng pha đỏ nằm chình ình ngay giữa bàn thì tôi mới biết chuyện sẽ tồi tệ đến mức nào. "Đừng có lại bắt đầu đấy," mẹ nói khi trông thấy tôi. Tôi chỉ lắc đầu. "Chắc là nếu mà mẹ bị bong cả da ra thì cũng chưa thấy tệ chứ gì." "Đưa Ackerman cho con," Ngu Ngơ nói, xúc đánh toẹt chỗ khoai tây nghiền đã hơi đóng tụ vào đĩa của cậu ta. "Con sẽ ăn cả da." Tôi hầu như không thể kiểm soát nổi cái phản xạ muốn 'đâm bị thóc chọc bị gạo' sau khi nghe xong lời nói đó, nhưng tôi cũng phải cố, và khi đọc cái bài văn về dinh dưỡng được phát cùng với món pizza đó - "Ngài Đại tá không bao giờ quên được những mùi thơm hấp dẫn toả ra từ căn bếp của mẹ ông, từ hồi ông còn nhỏ" - thì tôi nhớ ra cái hộp kim loại mà thứ ở bên trong đó cũng được quảng cáo là có mùi thơm hấp dẫn. "Này," tôi nói. "Vậy bên trong cái hộp mà hai bố con cậu đào lên có gì?" Ngu Ngơ nhăn mặt. "Chẳng có gì. Chỉ là một đống thư cũ rích." Dượng Andy chán nản nhìn thằng con. Tôi nghĩ, có khi đến cả dượng cũng bắt đầu nhận ra cái điều mà tôi đã biết ngay từ ngày đầu tiên gặp cậu ta: rằng đứa con trai thứ hai của dượng đúng là một thằng chẳng ra gì. "Không chỉ đơn giản là một đống thư cũ thôi đâu, Brad," dượng Andy nói. "Chúng rất xưa, chắc có từ khi ngôi nhà này được xây dựng - năm 1850. Chúng đã bị hư hại nặng - đúng ra là rách rời hết cả. Bố đang nghĩ xem có nên đưa chúng đến mấy nhà sử học không. Có thể họ sẽ thích, cho dù bị hư hỏng rồi. Hoặc là" - dượng Andy nhìn tôi - "dượng nghĩ có thể Cha Dominic sẽ khoái chúng. Con biết ông ấy mê lịch sử lắm mà." Cha Dom là người mê lịch sử ấy à, ừ thì thế, nhưng đó chỉ là do làm cầu nối cho hồn ma, giống như tôi, ông thường hay phải gặp những người đã thực sự sống vào thời kỳ có những sự kiện lịch sử như kiểu cuộc chiến ở Alamo, hay chuyến du hành của Lewis và Clark. Bạn biết đấy, những kẻ coi trọng quá mức cái cụm từ Tôi từng đến nơi này, tôi làm được cái nọ ấy mà. "Con sẽ gọi điện cho ông ấy," tôi nói khi lỡ vô tình để rơi một miếng thịt gà xuống đùi, và miếng thịt ngay lập tức bị Max, con chó nhà Ackerman, nuốt gọn, cái con mà cứ đến bữa ăn là chiếm một chỗ ngay cạnh tôi và quan sát chăm chú. Chỉ đến lúc Ngu Ngơ cười sằng sặc thì tôi mới nhận ra mình đã nói hớ. Chưa bao giờ là một đứa con gái bình thường, thế nên thỉnh thoảng phải bắt chước một đứa bình thường thì đúng là khó cho tôi. Tôi biết chứ, bọn con gái bình thường chẳng gọi điện cho mấy ông hiệu trưởng trường học bao giờ. Tôi trừng mắt cho Ngu Ngơ một phát từ phía bên kia bàn. "Tôi cũng vẫn phải gọi cho ông ấy," tôi nói, "để xem tôi nên làm gì với số tiền thừa từ sau vụ đi chơi đến Great America." "Để anh tiêu cho," Ngái Ngủ bỡn. Sao mẹ tôi lại chui vào đúng cái nhà có toàn diễn viên hài thế này? "Con xem chúng được chứ ạ?" tôi hỏi, cố tình lờ cả hai đứa anh em con dượng đi. "Xem gì cái gì hả cưng?" dượng Andy hỏi tôi. Trong một thoáng, tôi quên béng mất chúng tôi đang nói về chuyện gì luôn. Cưng à? Từ trước tới giờ dượng Andy chưa bao giờ gọi tôi là cưng hết. Chuyện gì đang xảy ra ở đây thế này? Chúng tôi đang (nghĩ đến mà rùng cả mình) trở nên gắn bó hơn? Xin lỗi, nhưng tôi vốn đã có sẵn một ông bố rồi, cho dù ông ấy đã chết. Ông ấy vẫn hiện ra thăm tôi quá thường xuyên ấy chứ. "Chắc là con bé muốn nói đến những bức thư," mẹ tôi nói, rõ là còn chả để ý đến chồng của mẹ vừa mới gọi tôi bằng cái từ gì. "Ờ, được chứ," dượng Andy nói. "Trong phòng chúng ta ấy." "Phòng chúng ta" là cái phòng ngủ của dượng Andy và mẹ tôi. Tôi cố gắng không bao giờ bén mảng đến, bởi vì, nói thật, việc đó khiến tôi phát khiếp. Ừ thì, tôi vui vì cuối cùng mẹ cũng tìm dược hạnh phúc, sau mười năm để tang bố tôi. Nhưng điều có nghĩa là tôi muốn tận mắt chứng kiến mẹ nằm chung giường với ông chồng mới và xem Văn phòng phía Tây? Không ạ, cho tôi xin kiếu. Tuy vậy, sau bữa tối, tôi phải lên gân lên cốt và bước vào phòng. Mẹ tôi đang ngồi bên bàn trang điểm để tẩy trang. Mẹ phải đi ngủ rất sớm để hôm sau dậy sớm cho đúng giờ để làm bản tin sáng. "Ơ, chào cưng," mẹ nói với tôi, ngơ ngác theo kiểu mẹ-đang-có-việc-bận. "Chắc là chúng ở đằng kia kìa." Tôi nhìn theo hướng mẹ chỉ phía trên tủ ngăn kéo của dượng Andy và trông thấy chiếc hộp kim loại mà Ngu Ngơ đã đào lên được, nằm lẫn cùng với hàng đống thứ đồ của đàn ông, như kiểu tiền xu lẻ, diêm và những tờ biên lai. Dượng Andy đã cố gắng rửa sạch cái hộp, và dượng ấy cũng đã làm khá là tốt đây. Có thể đọc được gần hết những chữ viết trên đó rồi. Ấy vậy nhưng lại là không may, bởi vì những chữ đó lại mang ý nghĩa hết sức xúc phạm đến chủng tộc. Hãy dùng thử loại xì gà Red Injun mới! trên đó viết. Thậm chí còn có cả tranh của một người Anhđiêng bản xứ trông hết sức tự mãn, tay cầm một nắm xì gà mà vốn dĩ phải là một ống cung tên. Mùi hương hấp dẫn sẽ làm say mê ngay cả người hút khó tính nhất. Như tất cả các sản phẩm khác của chúng tôi, chất lượng đã được đảm bảo. Thế đấy. Chẳng có lời cảnh báo của bác sỹ về chuyện hút thuốc có hại chết người thế nào. Chẳng có lời nào về chuyện sinh con bị thiếu cân. Nhưng cũng thật lạ khi thấy trước khi có tivi - hay thậm chí cả radio - thì quảng cáo cũng chẳng khác mấy so với ngày nay. Chỉ có điều, bạn biết đấy, bây giờ thì chúng ta đều biết rằng đặt tên sản phẩm theo tên một chủng tộc người nào đó thì có thể sẽ khiến họ cảm thấy bị xúc phạm. Tôi mở cái hộp ra và trông thấy những lá thư ở bên trong. Dượng Andy đã nói đúng, chúng hư hỏng cả. Những lá thư bị ố vàng đến mức khó có thể tách chúng ra mà không làm rách rời lung tung. Tôi thấy chúng được buộc chúng lại bằng một dải ruybăng bằng lụa, chắc hồi xưa có màu khác, nhưng bây giờ thì đã thành một màu nâu xấu xí rồi. Trong hộp có một xấp thư, chắc khoảng năm hay sáu lá. Khi cầm lá thư đầu tiên, tôi cũng không rõ tôi nghĩ mình sẽ đọc được gì. Nhưng chắc là đâu đó trong tôi đã biết rõ bản thân mình đang đi tìm cái gì rồi. Dù vậy, khi cẩn thận mở lá thư đầu tiên và đọc được mấy từ Hector thân mến, tôi vẫn cảm thấy như thể có người đã lén đến phía sau và đá tôi một cú vậy. Tôi phải ngồi hẳn xuống. Tôi ngồi xuống một trong mấy cái ghế bành mà mẹ tôi và dượng Andy kê cạnh lò sưởi trong căn phòng của họ, mắt vẫn dán chặt vào trang giấy ố vàng trước mặt. Jesse. Những lá thư này được gửi cho Jesse. "Suze ơi?" Mẹ nhìn tôi tò mò. Mẹ đang thoa kem lên mặt. "Con không sao chứ?" "Vâng," tôi nói bằng một giọng tắc nghẹn. "Con có thể... có thể ngồi đây và đọc một lát được chứ ạ?" Mẹ bắt đầu đổ kem ra hai bàn tay. "Được," mẹ nói. "Chắc chắn là con không sao chứ? Trông mặt con hơi... tái đấy." "Con khoẻ," tôi nói dối. "Con vẫn khoẻ mà." Hector thân mến, lá thư đầu tiên viết. Dòng chữ viết tay thật là đẹp - uốn lượn và trông lỗi thời, kiểu chữ mà hồi còn ở trường xơ Ernestine vẫn hay viết. Tôi có thể đọc được một cách dễ dàng, cho dù lá thư có đề ngày 8 tháng 5, năm 1850. Một ngàn tám trăm năm mươi! Đó là năm ngôi nhà của chúng tôi được xây dựng, năm đầu tiên ngôi nhà được sử dụng làm nhà trọ cho những du khách đến vùng Bán đảo Monterey này. Đó là cái năm - tôi biết được khi cùng Tiến Sỹ tìm hiểu - mà Jesse, hay đúng hơn là Hector (đó là tên thật của anh ta; bạn tin nổi không? Tên là Hector cơ đấy) đã biến mất một cách bí ẩn. Cho dù tôi tình cờ cũng biết rằng chuyện đó chẳng có gì là bí ẩn cả. Anh ta đã bị sát hại ngay trong chính ngôi nhà này... đúng ra là trong phòng ngủ của tôi ở trên gác. Đó là lý do tại sao gần một thế kỷ rưỡi qua anh ta cứ quanh quẩn ở đó, để chờ đợi... Chờ đợi điều gì? Chờ đợi mi đấy, một giọng nói vang lên trong đầu tôi. Một người làm cầu nối cho hồn ma, tìm thấy những lá thư này và báo thù cho cái chết của anh ta, để rồi anh ta có thể đi tiếp đến bất cứ nơi nào anh ta cần phải đến. Ý nghĩ đó khiến tôi chợt thấy hoảng sợ. Thực sự đấy. Nó khiến cho hai bàn tay tôi ướt mồ hôi, cho dù phòng của mẹ và dượng Andy đang dịu mát, điều hoà nhiệt độ chạy ầm ầm hết công suất. Gáy tôi bắt đầu sởn gai ốc khó chịu. Tôi ép mình cúi xuống đọc tiếp lá thư. Nếu như Jesse cần phải đi tiếp thì tôi sẽ phải giúp anh ta thực hiện điều đó. Dù sao đó là công việc của tôi mà. Chỉ có điều, tôi cứ nghĩ mãi đến Cha Dom. Cùng làm cầu nối như tôi, mấy tháng trước ông thú nhận với tôi rằng ông đã từng bất hạnh khi yêu phải một hồn ma, hồi ông ở tầm tuổi như tôi bây giờ. Mọi chuyện chẳng đi đến đâu cả - thì làm sao mà đến đâu được? - và rồi ông trở thành một linh mục. Hiểu không? Một linh mục. Chuyện thành ra tồi tệ thế đấy. Quên đi nỗi mất mát thì khó khăn đến thế đấy. Ông đã trở thành một linh mục. Nói thật, tôi chả hiểu làm sao mình trở thành một bà xơ nổi cơ chứ. Thứ nhất, tôi còn chẳng theo đạo Thiên chúa. Thứ hai, buộc hết tóc ra đằng sau thì trông tôi chả ra hồn gì. Thật đấy. Chính thế nên tôi chẳng bao giờ buộc tóc đuôi gà và đeo băngđô cả. Thôi đi, tôi tự nhủ chính mình. Đừng có nghĩ ngợi nữa mà đọc tiếp đi. Thế là tôi đọc tiếp. Lá thư đó là của một người tên là Maria. Tôi không biết nhiều lắm về chuyện Jesse sống ra sao trước khi anh ta chết - anh ta không muốn nói đến mà - nhưng tôi biết rõ rằng Maria de Silva là tên của cô gái mà Jesse đang trên đường đến để cưới cô ta thì anh ta biến mất. Cô ta là em họ gì đó. Tôi từng một lần trông thấy ảnh cô ta trong một cuốn sách. Đối với một cô gái mặc váy phồng, sống trước cả khi có phẫu thuật thẩm mỹ hay là đồ makeup Maybelline, thì cô ta đúng là hấp dẫn thật. Cứ xem cách viết thư thì có thể thấy là cô ta cũng biết thế. Ý tôi là cô ta biết mình xinh đẹp ấy. Lá thư toàn kể về những bữa tiệc cô ta đã tham dự, và mọi người đã nói gì về cái mũ đội đầu của cô ta. Giời ơi đất hỡi, cái mũ đội đầu của cô ta! Xin thề có Chúa, y như tôi đang đọc thư do Kelly Prescott viết vậy, chỉ trừ chuyện lá thư đó có một đống từ lỗi thời như kiểu ở nơi chốn này với lại buồn sầu ảo não, và không nhắc gì đến Ricky Martin. Mà lại còn nhiều chỗ viết sai chính tả nữa chứ. Maria có thể là một cô em hấp dẫn thật, nhưng sau khi đọc xong lá thư của cô ta thì cũng thấy rõ rằng hồi còn học trường làng, cô ta cũng chẳng giỏi giang gì cái trò chơi đánh vần cả. Khi đọc, điều khiến tôi ngạc nhiên là ở chỗ, có vẻ như không thể nào cô gái đã từng viết những lá thư này lại cũng là người (tôi tin chắc) đã ra lệnh sát hại vị hôn phu của chính mình. Bởi lẽ tôi cũng biết Maria không hề muốn cưới Jesse. Bố cô ta đã sắp đặt mọi thứ. Maria muốn cưới một kẻ khác, gã đó là Diego, một nô lệ bỏ trốn. Một gã hay ho hấp dẫn đây. Thực ra, tôi nghi chính Diego là người đã giết hại Jesse. Nhưng nói thế cũng không phải là Jesse đã kể những điều đó đâu nhé - hay đúng hơn anh ta không kể một điều gì về quá khứ của mình cả. Lúc nào anh ta cũng thế, kín mồm kín miệng như bưng không nói gì về việc anh ta chết ra sao. Chắc tôi cũng có thể hiểu được: bị sát hại hẳn là đau đớn lắm. Nhưng phải nói rằng tìm hiểu được rõ ràng rành mạch tại sao anh ta vẫn còn ở đây thì quả là khó, khi mà anh ta chả bao giờ muốn chuyện trò gì cả. Tôi khám phá được tất cả những chuyện này trong một cuốn sách viết về lịch sử vùng Salinas này, cuốn sách mà Tiến Sỹ đã bới ra được từ thư viện trong vùng. Chắc bạn sẽ bảo tôi đọc những lá thư của Maria và có một linh tính chắc chắn chứ gì. Rằng tôi sắp tìm được điều gì cả mùa hè trong mấy lá thư đó để chứng minh rằng Jesse đã bị giết... và kẻ nào đã ra tay ấy. Nhưng thật ra, lá thư cuối cùng cũng nhạt nhẽo chán òm như bốn lá trước. Chẳng có gì cả, chẳng có gì cho thấy Maria có nhúng tay vào một việc nào đó... chắc chỉ trừ chuyện hoàn toàn không thể đánh vần nổi cái từ vị hôn phu cho ra hồn. Nhưng đó là loại tội lỗi kiểu gì được? Tôi cẩn thận gấp lại mấy lá thư và đặt vào chỗ cũ trong cái hộp, đồng thời nhận ra phía sau gáy cũng như hai tay tôi đều không còn đổ mồ hôi nữa. Có phải tôi cảm thấy nhẹ nhõm vì không tìm được điều gì liên quan đến vụ án, không điều gì giúp tôi phá giải bí ẩn cái chết của Jesse? Chắc là thế. Tôi biết mình quá ích kỷ, nhưng đúng là như thế đấy. Giờ đây, tất cả những gì tôi biết được là Maria de Silva đã mặc cái gì để đến dự bữa tiệc ở nhà của một nhà đại sứ Tây Ban Nha. To tát gớm. Sao có người lại đi nhét những bức thư nhạt nhẽo chán phèo như thế vào hộp xì gà rồi đem chôn làm gì? Thật là vô nghĩa lý. "Cũng hay đấy chứ, phải không?" mẹ nói khi tôi đứng dậy. Tôi giật thót một cái. Tôi quên béng mất là mẹ còn đang ở đó. Giờ thì mẹ đang nằm trên giường, đọc một cuốn sách về đề tài làm thế nào để quản lý thời gian tốt. "Vâng," tôi nói, đặt mấy lá thư về chỗ cũ, trên tủ của dượng Andy. "Rất hay. Con rất vui khi biết được con trai của ông đại sứ đã nói gì khi anh ta trông thấy Maria de Silva mặc bộ váy vũ hội bằng vải sa màu trắng bạc mới may." Mẹ tò mò ngẩng lên nhìn tôi qua cặp kính đọc sách. "Ơ, cô ta có nhắc đến họ của mình đâu đó trong thư à? Bởi vì dượng Andy và mẹ không biết. Bọn mẹ không đọc thấy. Có phải con nói là de Silva không?" Tôi chớp mắt. "Ưm," tôi nói. "Không ạ. Cô ta không nói. Nhưng con và Tiến Sỹ... à, David, nó đã kể cho con nghe về gia đình này rồi, gia đình de Silva ấy, họ sống ở vùng Salinas cũng khoảng thời gian đó, và họ có một cô con gái tên là Maria, và con..." Giọng tôi đuối dần khi dượng Andy bước vào phòng. "A, Suze," dượng nói, trông có vẻ hơi ngạc nhiên khi thấy tôi trong phòng, vì từ trước tôi chưa bao giờ vào mà. "Con đọc mấy bức thư đó chưa? Hay nhỉ?" Hay. Ôi, giời ơi. Hay cơ đấy. "Vâng," tôi nói. "Con chuồn đây. Chúc mẹ và dượng ngủ ngon." Tôi không thể ra khỏi đó nhanh như mình muốn. Tôi chẳng hiểu, bọn trẻ con có bố mẹ tái hôn nhiều lần thì làm thế nào chúng có thể chịu được. Ý tôi là, mẹ tôi mới chỉ tái hôn có đúng một lần, cưới một người đàn ông tốt chẳng chê vào đâu được. Nhưng mà sao vẫn kỳ cục thế nào ấy. Nhưng nếu tôi nghĩ rằng mình có thể lui về phòng để được một mình suy xét mọi chuyện thật kỹ càng, thì tôi đã lầm. Jesse đang ngồi trên ghế bên cửa sổ kia. Ngồi kia, với dáng vẻ lúc nào cũng thế: hấp dẫn không chê vào đâu được, luôn mặc chiếc áo sơ mi cổ mở và chiếc quần đen kiểuạ?" tôi hỏi. của dân đấu bò - thì chết rồi bạn cũng có thay được quần áo đâu - với mái tóc sẫm màu ngắn xoăn ôm lấy phía sau gáy, đôi mắt đen sáng long lanh bên dưới hai hàng lông mày cũng đen như thế, một bên có một vết sẹo nhỏ màu trắng.... Vết sẹo mà tôi đã không biết bao lần mơ thấy mình chạm vào nó bằng những đầu ngón tay, nhiều lần đến mức tôi chẳng dám thú thực nữa kia. Khi tôi vào, anh ấy ngẩng lên - Spike, con mèo của tôi, đang nằm trên đùi - và nói: "Cuốn sách này thật khó hiểu." Anh ấy đang đọc Trận đổ máu đầu tiên của tác giả David Morrell, cuốn sách mà dựa vào đó người ta đã làm nên bộ phim Rambo. Tôi chớp mắt, cố gắng thoát khỏi trạng thái ngơ ngơ ngẩn ngẩn trong giây lát cứ mỗi lần trông thấy anh ấy. "Nếu Sylvester Stallone mà hiểu," tôi nói, "thì tôi nghĩ chắc là anh cũng hiểu được thôi." Jesse làm lơ. "Marx đã tiên đoán rằng những mâu thuẫn và hạn chế trong hệ thống của chủ nghĩa tư bản sẽ gây ra những cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng và càng khiến cho giai cấp công nhân nghèo khổ hơn," anh ấy nói, "giai cấp mà cuối cùng sẽ tiến hành một cuộc cách mạng và giành lại quyền sở hữu những tư liệu sản xuất... đó chính là điều đã xảy ra ở Việt Nam. Điều gì đã khiến chính quyền Mỹ tin rằng họ có lý do hợp lý để can thiệp vào cuộc đấu tranh nhằm giành được sự thống nhất về kinh tế của những con người ở đất nước đang phát triển đó?" Hai vai tôi xệ xuống. Thực tình, có phải quá đáng không, khi tôi chỉ muốn về nhà nghỉ ngơi sau cả ngày dài làm việc? Ôi, không đâu ạ. Tôi phải về nhà, đọc một mớ thư gửi cho tình yêu của đời tôi, do vị hôn thê của anh ta viết, cái mụ mà, nếu tôi đoán đúng, đã giết anh ta một trăm năm mươi năm trước. Thế rồi, cứ như là còn chưa đủ tệ hại, anh ta lại bắt tôi giải thích cho nghe về Cuộc Chiến tranh Việt Nam nữa cơ đấy. Thực tình tôi bắt đầu phải đi giấu hết sách giáo khoa để anh ta khỏi tìm thấy mới được. Rắc rối là ở chỗ, anh ta đọc rồi thực sự cố gắng ghi nhớ những gì sách viết, để rồi đi khắp nhà tìm những thứ khác để đọc và so sánh với những điều trong sách. Sao anh ta không chịu xem tivi như một người bình thường, điều đó tôi không thể hiểu được. Tôi đến chỗ giường và đổ ập lên đó, úp mặt xuống. Cũng nói luôn, tôi vẫn đang mặc cái quần soóc kinh khủng khiếp của khách sạn. Nhưng vào lúc này thì tôi không thể nào khiến bản thân để ý đến chuyện Jesse nghĩ gì về kích cỡ cái bàn toạ của tôi được. Chắc là nó đã lộ ra ngoài rồi. Không phải cái bàn toạ, mà là vẻ bất mãn chán nản vì mùa hè của tôi lại trôi đi như thế này. "Cô không sao đấy chứ?" Jesse hỏi. "Ừ," tôi nói, mặt úp sấp xuống mấy cái gối. Lát sau, Jesse lại nói: "Trông cô chẳng có vẻ gì là thế. Chắc chắn là không sao chứ?" Ừ, có sao đấy, tôi muốn hét lên vào mặt anh ta. Tôi vừa mới mất hai mươi phút để đọc mấy cái thư từ riêng tư mà vợ chưa cưới của anh đã viết, và tôi có được phép nói thêm rằng cô ta đúng là một kẻ chán chết không thể mê nổi? Sao anh lại có thể ngu ngốc đến độ đồng ý cưới cô ta chứ? Cô ta và cái mũ ngu si ấy? Nhưng vấn đề là, tôi không muốn Jesse biết tôi đã đọc thư của anh ta. Ý tôi muốn nói, chúng tôi sống cùng phòng, và có những điều nhất định mà bạn cùng phòng không nên làm. Ví dụ như, Jesse lua id="filepos120462">n tế nhị đi chỗ khác khi tôi phải thay quần áo, tắm gội, hay gì gì đó. Và tôi cũng rất cẩn thận cho con Spike ăn, đổ bô cho nó, cái con quái mà khác với một con vật bình thường, nó thực sự bồ kết chuyện ma làm bạn với người. Nó chỉ chịu đựng tôi vì tôi cho nó ăn thôi. Tất nhiên, hồi trước Jesse thì cũng có hối hận gì về chuyện hiện ra ở ghế sau của mấy cái ôtô mà tôi đang ngồi hẹn hò cùng với một người khác đâu. Nhưng tôi biết Jesse sẽ không bao giờ đọc thư riêng của tôi cả, mà tôi thì ít thư lắm, hầu hết toàn là của Gina, cô bạn thân nhất hồi còn ở Brooklyn thôi. Và phải thừa nhận điều này, tôi thấy thật tội lỗi khi đọc thư của anh ta, cho dù chúng đã gần hai trăm năm tuổi rồi và chắc chắn trong đó chẳng nhắc gì đến tôi hết. Cái điều khiến tôi ngạc nhiên là, Jesse dù sao cũng là một hồn ma và có thể đi khắp nơi mà không bị ai nhìn thấy - tất nhiên là trừ tôi và Cha Dom, và chắc là giờ thì có thêm nhóc Jack nữa - thế mà anh ta lại chẳng biết gì về chuyện mấy lá thư đó cả. Thật đấy, anh ta có vẻ chẳng biết tí tẹo gì về chuyện người ta đã tìm thấy chúng và rằng mới đây thôi, tôi đã ở dưới nhà và đọc hết cả rồi. Nhưng tôi đoán, chắc là cuốn Trận đổ máu đầu tiên cũng có vẻ hấp dẫn đấy. Thế nên, thay vì nói cho anh ta biết tôi thực sự bị làm sao - bạn biết đấy, chuyện những lá thư, và nhất là chuyện Tôi yêu anh, nhưng chuyện đó thì đi đến đâu được? Bởi vì thậm chí anh còn chẳng phải là một người còn sống và tôi là người duy nhất nhìn thấy anh, mà hơn nữa, rõ ràng là anh cũng có yêu tôi đâu nào. Đúng không? Đúng thế không? - thì tôi lại nói: "Ừm, hôm nay tôi đã gặp một người làm cầu nối khác nữa, và chắc là việc đó khiến tôi cư xử hơi kỳ quặc." Và thế là tôi trở mình quay lại và kể cho anh ta nghe chuyện về Jack. Jesse rất thích thú và bảo tôi nên gọi điện cho Cha Dom, báo cho ông biết tin. Tất nhiên, điều tôi muốn là gọi điện cho Cha Dom, kể cho ông nghe chuyện thư từ kia cơ. Nhưng Jesse còn ở trong phòng thì tôi không thể, vì nếu thế thì anh ta sẽ biết tôi đang tọc mạch chuyện riêng tư của anh ta, mà tôi chắc là anh ta sẽ chẳng vừa lòng đâu, cứ xem anh ta kín miệng chuyện mình đã chết ra sao thì biết. Thế là tôi nói: "Ý kiến hay đấy," và nhấc điện thoại, bấm số của Cha D. Chỉ có điều Cha D không nghe máy, thay vào đó là một người đàn bà. Lúc đầu tôi phát hoảng lên vì nghĩ rằng Cha Domini đang có 'phi vụ mờ ám' gì đó. Nhưng rồi tôi nhớ ra rằng ông sống trong khu nhà của linh mục cùng với bao nhiêu người khác nữa. Thế là tôi lên tiếng: "Xin cho gặp Cha Dominic với ạ?" hi vọng rằng đó chỉ là một bà nữ tu hay gì đó và bà ta sẽ đi tìm ông ấy ngay mà không nói gì hết. Nhưng đó không phải một bà nữ tu. Đó là xơ Ernestine, bà ta là hiệu phó trường cấp 3 tôi học, và đương nhiên cũng nhận ra giọng tôi. "Susannah Simon," bà ta nói. "Cô làm gì mà gọi điện cho Cha Dominic vào giờ này? Cô có biết giờ là mấy giờ rồi không hả? Gần 10 giờ rồi đấy!" "Con biết ạ," tôi nói. "Chỉ là - " "Với lại, Cha Dominic không có ở đây," xơ Ernestine nói tiếp. "Ông ấy đang bận tĩnh tâm." "Tĩnh tâm?" tôi hỏi lại, tưởng tượng ra cảnh Cha Dominic đang ngồi trước một đống lửa cùng với hàng đống những linh mục khác, cùng hát bài Đức thánh Kumbaya của tôi, và có khi còn đi cả xăng đan nữa cũng nên. Rồi tôi nhớ ra là lúc trước Cha Dominic đã bảo ông sẽ đến buổi tĩnh tâm dành cho hiệu trưởng của các trường cấp 3 Thiên chúa giáo. Thậm chí ông còn cho tôi cả số điện thoại ở đó, để phòng trường hợp có chuyện khẩn cấp liên quan đến ma mị gì mà tôi cần liên lạc với ông. Tôi không tính cái chuyện khám phá ra một người làm cầu nối nữa là một trường hợp khẩn cấp... cho dù Cha Dom thì sẽ cho là thế. Vậy là tôi nói lời cảm ơn xơ Ernestine, xin lỗi vì đã làm phiền bà ta, và cúp máy. "Tĩnh tâm là gì?" Jesse thắc mắc. Vậy là sau đó tôi lại phải giải thích cho anh ta tĩnh tâm là gì, nhưng trong suốt lúc ấy tôi chỉ ngồi đó nghĩ đến lần anh ta đã chạm vào má tôi lúc ở bệnh viện, và tự hỏi đó là do anh ta cảm thấy tội nghiệp tôi mà thôi, hay là anh ta thích tôi thật (thích hơn một người bạn ấy - vì tôi cũng biết anh ta thích tôi với tư cách là bạn bè mà), hay là lý do gì khác. Bởi vì, cho dù đã chết được một trăm năm mươi năm rồi, Jesse vẫn là một anh chàng đẹp trai cực kỳ, không chê vào đâu được - còn hơn cả Paul Slater ấy chứ... mà cũng có thể tôi nghĩ thế chỉ vì tôi yêu anh ta. Nhưng mà kệ, sao cũng được. Ý tôi là, anh ta trông rất giống một người bước ra từ chương trình WB. Đối với một người sinh ra trước cả khi người ta phát minh ra chất fluoride, anh ta có hàm răng rất đẹp, rất trắng, đều tăm tắp, chắc khoẻ. Ý tôi là, nếu ở Trường Truyền Giáo mà có được một anh chàng nào giống Jesse dù chỉ một tí tẹo thôi, thì việc đi học chắc cũng không đến nỗi là cái chuyện làm phí phạm mất bao nhiêu thời gian như nó vẫn thế. Nhưng có ích gì đâu chứ? Chuyện anh ta trông đẹp trai thế kia ấy mà? Anh ta là một hồn ma. Tôi là người duy nhất trông thấy được anh ta. Làm sao tôi có thể dẫn anh ta đến gặp mẹ tôi, hay đến dạ hội, hay cưới anh ta, hay gì gì đi nữa. Chuyện của chúng tôi thì làm gì có tương lai. Tôi phải nhớ kỹ điều đó mới được. Nhưng đôi khi, việc đó luôn luôn thật là khó, khó lắm lắm. Nhất là khi anh ấy đang ngồi kia, trước mặt tôi, phá lên cười vì những điều tôi đang kể, và vuốt ve âu yếm con mèo ngu si hôi hám đó. Jesse là người đầu tiên tôi gặp khi chuyển đến California, và anh ấy là người bạn thực sự đầu tiên của tôi ở đây. Anh ấy luôn ở bên tôi khi tôi cần, và tôi biết mình cần anh ấy hơn nhiều so với những người còn sống mà tôi quen. Và nếu mà tôi bị bỏ lại trên một hoang đảo và được chọn một người để đi cùng, thì tôi sẽ chẳng cần phải đắn đo gì: tất nhiên người đó sẽ là Jesse rồi. Đó là điều tôi đang nghĩ đến trong khi giảng giải về chuyện tĩnh tâm. Đó là điều tôi nghĩ đến trong khi giải thích những điều tôi biết về Cuộc Chiến tranh Việt Nam, và thậm chí cả sự sụp đổ của chế độ cộng sản ở liên bang Xô Viết trước kia nữa. Đó là điều tôi đã nghĩ trong khi tôi đánh răng, chuẩn bị lên giường ngủ. Đó là điều tôi nghĩ đến trong khi cơn buồn ngủ kéo đến và sung sướng xua đi ý nghĩ ấy cho tôi... gần đây, chỉ có lúc ngủ là quãng thời gian duy nhất tôi có thể thoát khỏi những ý nghĩ về Jesse. Nhưng nói cho bạn hay, ý nghĩ đó lại tái hiện nguyện vẹn khi chỉ vài giờ sau, tôi giật nảy người, tỉnh giấc và thấy một bàn tay bịt chặt lấy miệng mình. Và, ô, cả một lưỡi dao đang kề vào cổ tôi nữa.






Không bấm vùng phía dưới kẻo mất tiền nhé!